Sài Gòn đã là thủ đô của Quốc gia Việt Nam ngay từ năm 1949. Một năm sau ngày Hiệp định Geneve được ký kết, tức năm 1955, thành phố lớn nhất tại miền Nam Việt Nam này cũng được chính phủ vừa mới thành lập Việt Nam Cộng hòa chọn làm thủ đô, với tên gọi chính thức là "Đô thành Sài Gòn".
Do tác động của chiến cuộc nam bắc, trong 20 năm tiếp theo, việc di dân từ nông thôn vào thành thị mỗi lúc một tăng nhanh. Theo số liệu năm 1949, dân số khu vực nội thành có vào khoảng 1.200.000. Sau năm 1954, Sài Gòn tiếp nhận thêm hàng trăm nghìn người di cư đến từ phía bắc vĩ tuyến 17, tổng dân số Sài Gòn vọt ngay lên mốc 2.000.000. Dân bắc di cư chủ yếu tập trung tại các khu vực được chính phủ đệ nhứt cộng hòa bố trí như khu Xóm Mới ở Gò Vấp (tỉnh Gia Định), khu Bình An (Quận 8), và một số định cư rải rác tại các quận khác. Ngày 27 tháng 3 năm 1959, theo nghị định số 110-NV của tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành, Sài Gòn từ 6 quận được chia lại thành 8 quận, với tổng cộng gồm 41 phường.
Vào nửa cuối thập niên 1950, Sài Gòn trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giải trí tại miền Nam Việt Nam, là thành phố lớn nhất của Việt Nam Cộng hòa. Từ giữa thập niên 1960 đến những năm đầu thập niên 1970, do tác động của việc quân đội các nước đồng minh tham chiến tại miền Nam Việt Nam, nhiều cao ốc và công trình quân sự mọc lên. Lối sống của giới trẻ Sài Gòn cũng chịu ảnh hưởng bởi văn hóa phương Tây được du nhập theo chân các binh sĩ đồng  minh và sách báo Hoa Kỳ.
Dù vậy, so với ngày nay, Sài Gòn bấy giờ vẫn rất bé nhỏ, chỉ giới hạn bởi 11 quận nội thành, với một “vùng ngoại ô” thực sự là mênh mông dù vẫn thuộc Sài Gòn, như ở phía nam quận 8, phía tây các quận 6, quận 11, chưa kể tỉnh Gia Định liền bên với những vườn cây trái mênh mông, đất rộng người thưa và làm thành địa điểm lãng mạn cho những cặp tình nhân ngao du xa khói bụi thành phố những lúc hẹn hò ngày nghỉ, ngày chủ nhật…

BÔNG CỎ MAY (Thiên Trang)

Ở ngoại ô, không khí êm đềm, trong lành, tình người mộc mạc, nhịp sống chậm rải khoan thai, không bon chen náo động như thị thành. Đặc biệt với hoa cỏ cây cối nhiều dù đi giữa trưa vẫn luôn luôn ở trong vùng bóng râm mát vì hai bên đường những chòm tre đã giao thành một cái mái tự nhiên phía trên. Nhà dân thì ở cách xa xa nhau, nhà nào cũng có 1 khoảng đất nhỏ quanh năm trồng những cây mít, xoài, chùm ruột, khế... và hoa sứ thì tỏa hương ngào ngạt đêm đêm...
HOA SỨ NHÀ NÀNG (Chế Linh)

Ngày trước Sài Gòn rất bé. Qua khỏi cầu Phan Thanh Giản là ra xa lộ Biên Hòa mông quạnh, chỉ thấy toàn đồng trơ và chỉ có dân cư lác đác. Thảng hoặc ven xa lộ người ta bắt gặp một khu xóm cất tạm bợ của những người không thể tìm nhà trong thành phố do đắt đỏ, mới tìm ra vùng này. Do dân cư ít, lưu lượng giao thông về đêm ở đây càng ít hơn, gần như không có, họa hoằn là những chuyến xe quân đội chạy rầm rầm qua rồi trả tất cả về yên ắng… tối om khá ghê rợn, do đấy còn gọi là… “xa lộ không đèn”.
XA LỘ KHÔNG ĐÈN (Thanh Tuyền)

Ngày trước con người rất khép nép, ưa thẹn thùng do ảnh hưởng lễ giáo ngàn xưa và nền giáo dục thiên về bảo thủ nền nếp phong tục Á đông. Người ta ít bộc lộ khi họ thấy chưa tới lúc. Trớ trêu thay, đối với một vài số phận, phút mở lòng tỏ bày này lại gần như sẽ không bao giờ có vì nặng mang một mặc cảm (thường là nghèo), cho nên vẫn ngày ngày đi Qua Ngõ Nhà Em mà chưa một lần dám nói…
QUA NGÕ NHÀ EM (Giang Tử)

Trước 1975 xe lam là phương tiện đi lại phổ biến trong đô thành Sài Gòn, nhất là từ đô thành ra những khu vực phụ cận, ven đô do số lượng xe buýt không đủ đáp ứng nhu cầu đi lại. Những người khá giả thường đã sắm xe gắn máy đi cho tiện, chỉ còn những người có thu nhập thấp là thường dùng phương tiện "Chuyến xe lam chiều" này.
CHUYẾN XE LAM CHIỀU (Phi Nhung) 


AN PHÚ ĐÔNG - MỘT VÙNG NGOẠI Ô
An Phú Đông là một xã của quận Gò Vấp xưa, có dòng sông Bến Cát chảy xuyên qua. Đây là một nhánh nhỏ của sông Sài Gòn chảy giữa lòng tỉnh Gia Định. Sau năm 1975, con sông nhỏ này đổi tên thành sông Vàm Thuật, còn An Phú Đông trở thành một xã của huyện Hóc Môn. Đến năm 1997, khi quận 12 được thành lập thì An Phú Đông trở thành một phường của quận này.
Con sông Bến Cát (nay là Vàm Thuật) thuộc địa phận An Phú Đông từ xưa nên người ta vẫn gọi là sông An Phú Đông, ngày nay là ranh giới giữa quận Gò Vấp và quận 12.
Với bài hát Đêm Ru Điệu Nhớ dường như nhạc sĩ Hoàng Trang chỉ sáng tác riêng cho tiếng hát của Giao Linh. Tiếng hát nức nở như lời thủ thỉ, nhẹ đưa hồn người trôi miên man vào trong giấc mộng đêm dài.
Trong phần lời gốc, nhạc sĩ Hoàng Trang viết lời tâm sự của người trai nơi đầu tuyến, với câu đầu và câu cuối của bài hát là: Anh nói từ lâu đôi ta yêu nhau chân thành một lòng và Nên nhớ nên thương những ngày mình xa cách, đừng buồn nghe em…
Trong bản thu trước năm 1975 – băng Nhã Ca 5, Giao Linh hát đúng với phần lời gốc này. Tuy nhiên trong bản thu sau năm 75, cô đã sửa lại chữ “anh” thành “em” và ngược lại để bài hát thành tâm sự của người con gái hậu phương gửi người giới tuyến: Em biết từ lâu đôi ta yêu nhau chân thành một lòng và Nên nhớ nên thương những ngày mình xa cách, đừng buồn nghe anh…
Đôi người yêu nhau giữa khi quê hương đang trải qua binh biến miệt mài này, được miêu tả trong bài hát là đôi kẻ “cùng một quê hương” và “cùng chung chí hướng”, nên đã kết ân tình. Dù chiến cuộc hãy còn, dù ngàn phương cách biệt và “chắc ngày về không có” nhưng họ khuyên nhau hãy cố vui và cùng khắc ghi lời thề.
Ở đoạn sau đó, bài hát tiết lộ thêm rằng cô gái trong bài hát có thể là một người Hà Nội di cư, vì quê hương có dòng sông Hồng: Nếu biết quê hương em là sông Hồng. Thì quê hương anh cũng có một dòng sông An Phú Đông… ôi An Phú Đông!
ĐÊM RU ĐIỆU NHỚ (Giao Linh)


MƯA ĐÊM NGOẠI Ô (Hương Lan)


CĂN NHÀ NGOẠI Ô (Kim Loan)
Nhạc sĩ Anh Bằng có ba bài hát nói về vùng ngoại ô rất được khán giả yêu thích, đó là các bài Căn Nhà Ngoại Ô, Ngoại Ô Buồn và Cô Hàng Xóm. Lúc sáng tác bài này (1966), ông đã 40 tuổi, nên chắc chắn không phải là tâm sự của ông hay của người bạn nào trong quân ngũ như trường hợp Chế Linh với Đêm Buồn Tỉnh Lẻ. Tuy nhiên, giống như bao người dưới thời lửa binh Nam Việt Nam khi ấy, ông đã chứng kiến bao sự chia tay đầy luyến tiếc vì chiến cuộc ở quanh mình: chàng trai phải lên đường nhập ngũ tòng chinh, để lại người con gái thương yêu nơi phố phường hoa lệ. Tuy nhiên, khác với các câu chuyện thường thấy về một người con gái hậu phương thương nhớ chờ chồng (hoặc người yêu) nơi tiền phương, chuyện tình trong Căn Nhà Ngoại Ô là câu chuyện của hai người cùng ở trên chiến trường. Người con gái trong Căn Nhà Ngoại Ô  không phải là người em gái hậu phương hiền dịu bẽn lẽn mà trực tiếp tham gia vào chiến trường làm nữ cứu thương. Bài hát có cái kết lửng nhưng rất hay, là câu nói quen thuộc trái đất tròn, như thắp lên một tia hy vọng cho người lính (cũng như cho người nghe nhạc) tin vào cái kết thúc đẹp của hai người.

CÔ HÀNG XÓM (Duy Khánh)

NGOẠI Ô ĐÈN VÀNG (Thái Châu)

NGOẠI Ô BUỒN (Trang Mỹ Dung)


TÌNH BUỒN NGOẠI Ô (Huỳnh Nguyễn Công Bằng)

Nghe bài này của nhạc sĩ Bắc Sơn mô tả từng chi tiết cảnh vật "ngoại thành" ngày đó bạn sẽ hình dung được một vùng phụ cận thời đó, dẫu gần Đô Thành Sài Gòn nhưng bát ngát một miền xinh tươi, đầy ắp những thổ sản thôn quê như cỏ non, đường đê, cây cầu dừa, bông bưởi trắng rụng, đất mát rượi dưới bàn chân khi dẫm lên, khói xám đốt đồng…
EM ĐI TRÊN CỎ NON (Hương Lan)

Còn trong bài hát này, cảnh vật thiên nhiên rất thoáng đãng không có gì cản trở "Nhớ đêm hôm nào, bóng ngã trăng soi đầu ngõ" thì nhiều phần chắc đôi tình nhân đang nắm tay dắt nhau từ trong một ngõ ngoại ô ra ngoài đường cái, và bóng họ trải dài dưới ánh trăng sáng soi vằng vặc trên đầu. Nếu nhà họ ở trong Đô Thành Sài Gòn rất có thể các tác giả đã dùng chữ "đầu phố", hơn nữa ánh trăng sẽ không còn nổi bật vai trò vì bấy giờ người viết nhạc phẩm sẽ phải chăm chú miêu tả ánh đẻn đường đô thị.
KỶ NIỆM YÊU (Chế Linh)



PHỤ LỤC: TẢN MẠN VỀ XA LỘ BIÊN HÒA (rút gọn từ bài gốc đăng trên anhxua.com) 
Xa lộ Biên Hòa có chiều dài 30 km chạy từ Sài Gòn lên đến Biên Hòa vì thế thời VNCH gọi là xa lộ Biên Hòa. Xa lộ được khởi công từ 1959 đến 1961 thì hoàn thành. Sự ra đời của xa lộ Biên Hòa gây không ít bàn tán thời đó. Vì, thứ nhất là xa lộ làm rất phẳng phiu, từ trước đến nay người dân miền Nam chưa bao giờ thấy con đường nào rộng và phẳng phiu như thế. Đó là vì xa lộ này được làm theo kỹ thuật mới, trải nhựa bằng máy làm đường kiểu mới khác cách làm đường kiểu cũ thời Pháp thuộc –là đổ đá răm trên mặt đường rồi đổ nhựa đường xuống từng chỗ, sau đó dùng hủ lô cán cho đều ra. Vì đổ nhựa từng chỗ một nên mặt đường không thể nào bằng phẳng bằng mặt đường đổ bằng máy có chiều ngang rộng và đổ nhựa cùng một lúc. Thứ hai là lần đầu tiên dân miền Nam nhìn thấy đèn cao áp thủy ngân gắn trên xa lộ này. Ban đêm chạy xe đèn chiếu sáng trưng nhìn rõ con đường chứ không tù mù như những ngọn đèn vàng trong thành phố gắn từ thời Pháp. Lại thêm cứ chiều tối chạng vạng là đèn tự động bật lên nhờ có gắn các bộ cảm ứng với ánh sáng. 
Khi ánh sáng xuống thấp đến một mức nào đó thì kích hoạt bộ cảm ứng làm cho đèn bật lên, khi trời đêm bắt đầu rạng sáng thì đèn tự động tắt đi. Thứ ba xa lộ này có một cây cầu thật dài, gần 1 km (986,12m). Cầu cũng được làm với kỹ thuật mới khác với các cầu bằng sắt lót ván thời đó, mặt cầu cũng đổ bê tông như mặt xa lộ và xe chạy qua không phải giảm tốc độ. Trên mặt cầu, cách quãng lại có khoảng hở với đầu nối bằng sắt để phòng khi khí dưới tác động nhiệt các khoảng bê tông dãn nở và thu lại không làm cho nứt cầu.
Điều làm cho nhiều người thắc mắc nhất là tại sao lại làm con đường rộng như thế, dài như thế chạy ngang qua những khu hai bên toàn là ruộng lúa, không có bao nhiêu người ở rồi đến Biên Hòa thì đột ngột dừng lại. Để giải đáp thắc mắc đó có người đưa ra câu trả lời là Mỹ làm con đường rộng rãi phẳng phiu như thế để cho phi cơ đáp xuống, phòng khi phi trường Tân Sơn Nhất bị quân đội miền bắc phá hủy. Từ đó họ suy ra Mỹ làm xa lộ Biên Hòa chủ yếu chỉ để phục vụ cho quân sự, và cũng bộc lộ việc Mỹ có ý chiếm đóng lâu dài miền Nam Việt Nam. 
Nhưng có người từng du học bên Pháp giải thích đây là con đường xa lộ huyết mạch nhằm nối liền khu dân cư tại Sài Gòn và khu kỹ nghệ tại Biên Hòa. Họ kể ở bên Pháp, khu công nghiệp và khu dân cư lúc đầu được qui hoạch cách xa nhau và nối với nhau bằng xa lộ. Theo thời gian, người dân xây nhà cửa san sát hai bên xa lộ khiến cho hai khu vực biến thành một thành phố chung.
Theo kế hoạch chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ thành lập khu công nghiệp tại vùng Biên Hòa. Còn vùng Sài Gòn là trung tâm thương mại và khu dân cư tiêu thụ hàng hóa sản xuất từ khu công nghiệp Biên Hòa, đồng thời những người sống tại Sài Gòn đi làm tại Biên Hòa sẽ có con đường cao tốc đi lại cho nhanh. Đến năm 1975 xa lộ Biên Hòa đang làm đúng chức năng mà những nhà qui hoạch trước đó đã dự định. Có nhiều hãng xưởng mở ở khu công nghiệp Biên Hòa. Hàng ngày, nhiều công nhân tại Sài Gòn đi làm tại khu công nghiệp Biên Hòa được xe buýt của công ty chở đi. Các công nhân tụ tập tại một số điểm ở Sài Gòn, xe buýt ghé đón và chở đi Biên Hòa. Chiều xe buýt lại chở công nhân về thả ở các điểm tụ tập. Như thế cùng một con đường, tùy theo kiến thức mà mỗi người nhìn nó với cặp mắt khác nhau.
Người không có kiến thức về cách thức phát triển của một quốc gia công nghiệp thì tưởng rằng Mỹ làm xa lộ Biên Hòa để chiếm đóng miền Nam lâu dài. Nếu nhìn vào thời điểm xa lộ Biên Hòa được xây dựng thì có thể thấy mục đích của xa lộ Biên Hòa không phải là để phục vụ cho chiến tranh. Xa lộ Biên Hòa được khởi công từ năm 1959. Lúc này, người Mỹ nghĩ rằng chính quyền Ngô Đình Diệm đã thành công trong việc đem lại ổn định tại miền Nam nên đó là lúc bắt đầu bắt tay vào xây dựng kinh tế. Xa lộ Biên Hòa được xây dựng để làm hạ tầng cơ sở cho một nền kinh tế công nghiệp tại miền Nam. Khi đã có xa lộ và các cơ sở hạ tầng thì các công ty Mỹ và các nước khác sẽ đến miền Nam đầu tư, mở nhà máy. Các cố vấn quân sự Mỹ sẽ có thể rút về vì quân đội miền Nam đủ sức để giữ cho tình hình ổn định. Miền Nam có thể tự lực phát triển như Singapore, Mã Lai hay Thái Lan mà không cần Mỹ phải can thiệp vào.